Tên di sản : Từ đường họ Triệu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 318/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về quy mô cấu trúc của nhà thờ trước đây, tài liệu ghi chép ở gia phả của dòng họ không cho biết một cách cụ thể. Theo các cụ già cao niên ở trong họ, ngôi nhà được trùng tu lại vào đời Vua Thành Thái thứ 18 (1902) được kiến trúc theo kiểu chữ (T). Toà bái đường gồm 3 gian xây gạch, toàn bộ phần mái bằng gỗ, lợp ngói mũi. Khu kiến trúc này đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, là một ngôi nhà được kiến trúc theo kiểu chữ (J) gồm Hâu cung 2 gian có diện tích dài 2,80m x rộng 2,70m, hiên 1,17m; Tiền đường 3 gian dài 9,35m x rộng 6,6m mới được tu bổ lại vào năm 1990. Các cột trụ xây gạch, đắp mới các câu đối chữ Hán. Trên mái đắp nổi dòng chữ Hán “Triệu từ đường”. Các bờ dải, bờ nóc được đắp những đường gờ chỉ. Trên mái đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Ở sân trước, liền kề với nhà thờ là một ngôi mộ tổ xây hình vuông, trước mặt mộ là bức bình phong, trên bề mặt đắp nổi bằng chữ quốc ngữ: Tiền khởi tổ họ Triệu 1469, xây dựng và tôn tạo nhà thờ 1990.
Phía trong nhà có ban thờ ở gian giữa, trên có hương án, bài vị và ngai thờ. Phía trên bức đại tự vua ban, sơn son thiếp vàng là di vật cổ nhất. Bức đại tự này được chạm hình chữ Hán nổi trong lòng Công đức khả gia, hai bên 4 chữ đại tự này là một dòng chữ nhỏ Duy Tân nhị niên ân mông Khâm Tứ (bốn chữ này được Vua Duy Tân ban năm 1908). Bài vị nhà tổ ghi: Triệu Bảo Nhi Trung đẳng Phúc thần Linh vị. Còn các vị đời sau là những bài vị không được ghi chép chữ Hán chỉ là một ngai thờ để trần không có bài vị.
Ở hai bên gian tả và hữu của nhà thờ được đặt bàn thờ của hai chi họ: Chi thứ nhất và chi hai. Hai chi họ này hiện tại đang có mặt tại làng Yên Trung, xã Hoa Lộc. Nhìn chung, nhà thờ họ Triệu có lịch sử từ lâu đời. Trải qua thời gian, chiến tranh, mưa bão, hoả hoạn, nhà thờ đã tu sửa nhiều lần, nhưng về cơ bản mặt bằng kiến trúc chữ đinh (J) vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên bộ khung gỗ bị cháy và hư hỏng nên hiện nay đã bị thay đổi về phương diện kết cấu các vì kèo. Dù sao thì toàn bộ hệ thống văn bản bằng chữ Hán (Gia phả, sắc phong, hoành phi, câu đối,...) là một tài sản quý giá để giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử, của dòng họ Triệu trên đất Yên Trung – Hoa Lộc.
Lăng mộ: Để tưởng niệm và tôn vinh công đức của đức tổ Triệu Bảo Nhi, hậu duệ của dòng họ con cháu họ Triệu đã xây dựng ngôi mộ Tổ ở ngay trước sân từ đường. Việc làm này phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc. Khu lăng này không chỉ là biểu tượng của đạo lý uống nước nhớ nguồn mà còn là công trình nằm trong quần thể di tích đền thờ và lăng mộ đã được xây dựng cách đây hàng mấy trăm năm.
Lăng và Lăng mộ là một danh từ chung chỉ nơi an táng người đã khuất. Có Lăng của vua chúa, có lăng của quan viên. Trong thời phong kiến, riêng đối với mộ của vua được gọi là Lăng tẩm.
Nếu tìm hiểu Lăng thời xưa thì góc độ lễ nghi, văn hoá, thì thấy có những loại hình Lăng khác nhau. Thí dụ, có Lăng để chỉ phần mộ người chết, có Lăng kèm theo miếu thờ, thường gọi là Lăng miếu. Có Lăng gọi là Lăng viên, nơi để mộ của vua, hoặc mộ của Vương thân, hoàng tộc hoặc mộ của các anh hùng liệt sĩ. Đặc điểm của Lăng viên là có khu vườn riêng, cây cối xanh mát. Nhưng ở Lăng viên thì Lăng mộ vẫn là chủ chốt và quan trọng nhất.
Đối với Triệu Bảo Nhi thì phần mộ của Ông được chôn cất ngay ở sân của nhà thờ. Đây là lăng mộ chôn cất bên cạnh nhà thờ dòng họ (vốn trước là đền thờ Ông).
Hiện nay, hình dáng của ngôi mộ cũ không còn mà đã được xây dựng theo kiểu kiến trúc hiện đại nên phần thiết kế nội thất, ngoại thất sẽ khác với kiểu lăng mộ truyền thống. Vì khuôn viên quá chật, vì con đường liên làng trước đây đã cắt khu đất đường Cột cờ với làng Yên Trung thành hai khu vực: khu vực đồng và khu vực làng, do vậy giữa mặt tiền lăng mộ đáng lẽ phải có một con đường, thời xưa gọi là thần đạo, đồng thời phải xây dựng một cột đá (thạch trụ) để làm ngọn tiêu, nêu cao cho mọi người thấy và trước đường mộ (mộ đạo) có dựng một tấm bia ghi công lao của Triệu Bảo Nhi. Tấm bia này gọi là Thần đạo bi.
Khu vực Lăng mộ của cụ Triệu Bảo là một quần thể di tích có giá trị cần được nghiên cứu trên nhiều phương diện, nhất là tập tục, táng thức những người có công ngay trong khu vực thờ tự.
Từ đường họ Triệu còn giữ được nhiều hiện vật có giá trị như:
Hậu cung:
3 ngai thờ (cổ); 1 ngai thờ mới; 2 bài vị (cổ); 01 mũ thờ gỗ (cổ); 02 kiếm thờ gỗ (cổ); 02 đại đạo (cổ); 02 thẻ bài (cổ); 01 giá chúc văn (cổ); 01 giá chuông (cổ); 01 mâm bồng gỗ (cổ); 02 cây nến gỗ (cổ); 05 đài gỗ (cổ); 02 ống hương (cổ); 02 ngựa nhỏ (cổ); 02 lư hương (cổ); 04 cây nến đồng (cổ); 04 bát hương Sứ (03 cổ, 01 mới); 01 hộp sắc gỗ (cổ).
Đồ thờ hai bên tiền đường:
02 ngai thờ (mới); 02 khung gỗ (cổ); 6 đài nước gỗ (cổ); 01 đôi câu đối (cổ); 01 hương án tiền đường: dài 1,5m x 0,70m x 0,75 m; 01 bức đại tự (cổ); 01 tranh thờ (cổ)
Ngoài ra, di tích còn lưu giữ được một số tài liệu Hán Nôm quý giá như:
Gia phả (thời vua Duy Tân), sắc phong (vua Khải Định).v.v...